Mới đây, khoa Ngoại chung, Bệnh viện Quân y 17 đã tiếp nhận một bệnh nhân nữ, 51 tuổi, tiền sử khỏe mạnh, vào viện vì lí do đau bụng ngày thứ 3 sau nuốt dị vật răng giả. Theo lời bệnh nhân kể lại, khoảng 3 ngày trước nhập viện, trong lúc uống thuốc, bệnh nhân vô tình nuốt phải một hàm răng giả tháo lắp có gọng kim loại hai đầu. Sau khoảng 24 giờ, xuất hiện triệu chứng đau bụng âm ỉ vùng quanh rốn và hạ vị, không kèm nôn ói, không sốt, đại tiện được. Bệnh nhân đến một cơ sở y tế tại tỉnh Quảng Ngãi, uống thuốc xổ theo dõi nhưng không có kết quả. Ngày 04/07/2025, đau bụng tăng dần, lan xuống hố chậu trái, trung đại tiện được, không sốt, được chuyển đến Bệnh viện Quân y 17 khám và điều trị. Sau khi thăm khám và làm các xét nghiệm máu, chụp Xquang, cắt lớp vi tính ổ bụng, các bác sĩ khoa Ngoại chung đã đưa ra chẩn đoán Thủng đại tràng sigma do dị vật đường tiêu hóa biến chứng viêm phúc mạc khu trú hố chậu trái.
Hình 1: X-quang bụng không chuẩn bị: Phát hiện dị vật dạng kim loại nằm ở vùng tiểu khung trái, không thấy liềm hơi dưới cơ hoành.
Hình 2: CT scan bụng không có thuốc cản quang: Ghi nhận dị vật dạng kim khí kích thước 60 x 4 mm, nằm tại đại tràng sigma, xuyên qua thành ruột. Mô mỡ xung quanh tăng tỷ trọng, có dấu hiệu viêm, không tụ dịch lớn. Không thấy khí tự do trong ổ bụng nhưng có dịch ổ bụng lượng ít.
Kíp trực khoa Ngoại chung phối hợp khoa Gây mê hồi sức đã tiến hành phẫu thuật cấp cứu nội soi ổ bụng xử lý tổn thương. Qua nội soi ổ bụng được thực hiện, cho thấy vùng hố chậu trái có dịch đục, mùi hôi nhẹ, lượng trung bình (~200 ml). Mạc nối lớn bám tụ về vùng hố chậu trái, mô viêm dính quanh đại tràng sigma. Tại vị trí đại tràng sigma, phát hiện lỗ thủng đang xì phân, mô ruột phù nề, dính chặt. Dị vật không dễ bộc lộ qua nội soi do nằm sâu và đâm xuyên thành ruột. Đây là một trường hợp bệnh hy hữu, tiên lượng rất nặng do vị trí thủng ở đại tràng, thời gian đến viện muộn, dị vật có tính chất phức tạp. Các phẫu thuật viên quyết định chuyển mổ mở đường trắng giữa trên dưới rốn. Tiến hành bóc tách đại tràng sigma cẩn thận, phát hiện hàm răng giả nguyên khối có hai móc kim loại sắc nhọn xuyên qua thành đại tràng sigma. Dị vật được lấy ra nguyên vẹn, kiểm tra không còn tổn thương thứ phát hay dị vật khác. Mô xung quanh có viêm lan tỏa, không đủ điều kiện khâu nối hồi phục, do mô phù nề, nguy cơ xì rò cao. Xử trí sau cùng: Cắt bỏ đoạn ruột tổn thương. Đưa đầu gần ra da tạo hậu môn nhân tạo tạm thời (colostomy). Đầu xa được khâu kín và cố định vào thành bụng (Hartmann procedure). Đặt dẫn lưu ổ bụng và đóng bụng theo lớp.
Hình 3: Hình ảnh tổn thương qua nội soi ổ bụng
Hình 4 và 5: Hình ảnh dị vật được gắp ra khỏi ổ bụng
Sau mổ, bệnh nhân được chuyển về khoa điều trị trong tình trạng tỉnh táo, sinh hiệu ổn định, không sốt. Ngày thứ 3 hậu phẫu, hậu môn nhân tạo bắt đầu hoạt động tốt. Dẫn lưu ổ bụng giảm dần và được rút sau 5–7 ngày.
Sau khi bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, dự kiến thực hiện thì hai: khâu nối phục hồi đại tràng sau khoảng 8–12 tuần, khi tình trạng viêm trong ổ bụng ổn định, tình trạng dinh dưỡng, toàn thân được cải thiện.
Dị vật đường tiêu hóa là tình trạng thường gặp, Phần lớn các dị vật đường tiêu hóa, đặc biệt là những dị vật nhỏ, tròn, không sắc nhọn và đã qua môn vị, có thể tự đào thải qua phân mà không cần can thiệp. khoảng 80% các dị vật tiêu hóa sẽ tự thoát khỏi cơ thể một cách tự nhiên. Tuy nhiên, khoảng 10–20% trường hợp dị vật không thể tự thoát ra ngoài và cần can thiệp nội soi, đặc biệt khi dị vật mắc kẹt ở thực quản, dạ dày hoặc tá tràng. Đáng lưu ý, dưới 1% các trường hợp sẽ tiến triển thành biến chứng nghiêm trọng như thủng ruột, tắc ruột hoặc viêm phúc mạc, đòi hỏi phẫu thuật cấp cứu. Chẩn đoán cần dựa trên khai thác tiền sử, thăm khám lâm sàng và các phương tiện hình ảnh phù hợp – trong đó CT-scan được xem là công cụ tối ưu trong phát hiện dị vật không cản quang và đánh giá biến chứng. Điều trị theo hướng tiếp cận phân tầng nguy cơ: nội soi sớm được ưu tiên cho dị vật sắc, dài hoặc gây tắc; phẫu thuật chỉ định khi có thủng, viêm phúc mạc, hoặc thất bại nội soi.
Việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật phụ thuộc vào vị trí tổn thương, mức độ viêm nhiễm, tình trạng mô ruột, và toàn trạng người bệnh. Khi đại tràng chưa được chuẩn bị, mô phù nề, ổ viêm lan rộng và nguy cơ rò cao, phẫu thuật Hartmann – cắt đoạn ruột tổn thương, đóng đầu xa và đưa đầu gần ra da tạo hậu môn nhân tạo tạm thời – là lựa chọn an toàn và phù hợp. Ngược lại, trong các trường hợp tổn thương khu trú, mô lành, không nhiễm trùng nặng và điều kiện toàn thân cho phép, có thể cân nhắc khâu lỗ thủng đơn thuần hoặc cắt nối ngay một thì. Việc đánh giá kỹ lưỡng và cá thể hóa quyết định phẫu thuật là yếu tố then chốt đảm bảo kết quả điều trị tối ưu và giảm thiểu biến chứng sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ASGE Standards of Practice Committee. (2011). Management of ingested foreign bodies and food impactions. Gastrointestinal Endoscopy, 73(6), 1085–1091.
- ESGE Clinical Guideline: Removal of foreign bodies in the upper gastrointestinal tract in adults. Endoscopy, 48(5), 489–496.
- Sartelli M, Chichom-Mefire A, Labricciosa FM, Hardcastle T, Abu-Zidan FM, Adesunkanmi AK, et al. The management of intra-abdominal infections from a global perspective: 2017 WSES guidelines for management of intra-abdominal infections.
- Steele, S. R., Steele, M. H., Alsager, M. A., Buie, W. D., Carmel, J. E., Champagne, B. J., … & Paquette, I. M. (2022). Clinical practice guideline for ostomy surgery. Diseases of the Colon & Rectum, 65(10), 1121–1141.
- Ambe, P., Weber, S. A., Schauer, M., & Knoefel, W. T. (2012). Swallowed foreign bodies in adults. Deutsches Ärzteblatt International, 109(50), 869–875.
- Birk, M., Bauerfeind, P., Deprez, P. H., Häfner, M., Hartmann, D., Hassan, C., … & Dumonceau, J. M. (2016). Removal of foreign bodies in the upper gastrointestinal tract in adults: European Society of Gastrointestinal Endoscopy (ESGE) Clinical Guideline. Endoscopy, 48(5), 489–496.
- Ginsberg, G. G. (1995). Management of ingested foreign objects and food bolus impactions. Gastrointestinal Endoscopy Clinics of North America, 5(1), 29–51.
- Goh, B. K. P., Tan, Y. M., Lin, S. E., et al. (2006). Predictive factors for adverse outcomes in patients with gastrointestinal foreign bodies. World Journal of Surgery, 30(9), 1731–1736.