Ứng dụng điều trị thuốc sinh học trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp tại Khoa Nội Tim-Thận –Khớp– Bệnh viện Quân y 17 – Cục Hậu Cần- Quân khu 5

Viêm cột sống dính khớp là một bệnh viêm khớp liên quan đến cột sống mãn tính, có liên quan chặt chẽ đến hệ kháng nguyên phù hợp tổ chức mô HLA-B27, có tính chất gia đình, biểu hiện đặc trưng là viêm khớp cùng chậu giai đoạn sớm và tổn thương nhiều khớp trục ở giai đoạn muộn thường kết hợp với viêm các vị trí bám vào xương của các dây chằng, cân mạc và bao khớp. Nguyên nhân gây bệnh viêm cột sống dính khớp vẫn chưa được xác định rõ ràng. Có nhiều giả thuyết về nguyên nhân và sinh lý bệnh được đưa ra nhưng giả thuyết về yếu tố cơ địa (Mang kháng nguyên HLA-B27) và nhiễm khuẩn được chấp nhận nhiều nhất. Viêm cột sống dính khớp là bệnh quan trọng trong nhóm bệnh khớp cột sống huyết thanh âm tính, bao gồm các phân nhóm sau: Viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vẩy nến, bệnh lý viêm ruột mạn, hội chứng Reiter, viêm khớp phản ứng, bệnh lý cột sống không phân biệt (undifferentiated spondyloarthropathy). Nhóm bệnh này có liên quan với kháng nguyên hòa hợp tổ chức HLA-B27

     Hình 1 : Dính các thân đốt sống tạo hình ảnh “cột sống dạng cây tre”   

                                                Hình 2: Tổn thương khớp cùng chậu trên MRI

Điều trị viêm cột sống dính khớp bằng thuốc sinh học là một bước tiến mới trong Y học hiện đại. Nó giúp các trường hợp bệnh nặng giảm nguy cơ bị tàn phế. Tại Việt Nam cũng có khá nhiều thuốc sinh học được đưa vào danh sách trị viêm cột sống dính khớp. Phổ biến trong số đó là các nhóm như: Ức chế hoại tử khối u TNF (gồm một số loại như Adalimumab, Certolizumab, Golimumab, Etanercept và Infliximab); thuốc ức chế interleukin 6, ức chế tế bào B và ức chế Interleukin IL – 17. Trong đó, thuốc ức chế TNF, ức chế Interleukin IL – 17 được sử dụng phổ biến nhất.

Tại Khoa Nội Tim- Thận – Khớp – Bệnh viện Quân y 17- Cục Hậu Cần- Quân khu 5, điều trị sinh học bắt đầu áp dụng từ tháng 12/ 2022. Secukinumab 150mg là một trong những thuốc sinh học được bắt đầu sử dụng; với cơ chế tác dụng: Secukinumab là kháng thể đơn dòng igG1/k hoàn toàn người , gắn chọn lọc và làm trưng hòa cytokine tiền viêm interleukin-17A(IL-17A). Secukinumab hoạt động nhắm vào IL-17A và ức chế tác động của IL-17A với receptor IL-17 (receptor bộc lộ ở một số loại tế bào khác nhau trong đó có tế bào sừng). Từ đó Secukinumab ức chế sự giải phóng các cytokine tiền viêm, chemokine và các chất trung gian của các mô bị tổn thương, làm giảm, sự tham gia qua trung gian OL-17A trong các bệnh tự miễn và viêm. Một số Secukinumab phù hợp về lâm sàng đi đến da và làm giảm các marker viêm tại chỗ. Secukinumab làm giảm các dát đỏ, giảm thâm nhiễm và bong vảy ở các tổn thương vảy nến mảng là kết quả trực tiếp của điều trị. IL-17A là một cytokine tự nhiên có tác động lên đáp ứng viêm và miễn dịch bình thường. IL-17A đóng vai trò chủ chốt trong sinh bệnh học của vảy nến thể mảng, viêm khớp vảy nến và viêm cột sống dính khớp . Số lượng tế bào sản sinh IL-17 cũng cao hơn một cách có ý nghĩa trong vùng tủy xương dưới sụn khớp của các khớp liên mỏm bên của cột sống trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp. Thuốc được chỉ định cho bệnh lý Viêm cột sống dính khớp và Vảy nến thể mảng, Vảy nến thể khớp, Vảy nến mụn mủ lan tỏa, Vảy nến đỏ da toàn thân.

  1. Không dùng thuốc: Tư thế tốt, giữ khớp ở vị trí sinh lý, tránh dính khớp ở tư thế xấu, tập thể dục, vật lý trị liệu, hướng dẫn bệnh nhân, tâm lý liệu pháp, thành lập hội người bệnh giúp đỡ, hổ trợ nhau
  2. Dùng thuốc:* Thuốc kháng viêm không Steroid: Celecoxib, Etoricoxib,Naproxen, Meloxicam, Diclofenac, Piroxicam, Ibuprofen, Indomethacin… sử dụng dài ngày, nhưng lưu ý tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, có thể dùng các thuốc ức chế bơm Proton, các thuốc bảo vệ tế bào ( Misopostol) để phòng ngừa tác dụng phụ trên đường tiêu hóa. Lưu ý trên bệnh nhân có nguy cơ bệnh tim mạch, bệnh nhân > 40 tuổi để chọn lựa thuốc thích hợp (Indomethacine không nên dùng cho người trên 40 tuổi)

         ❖ Thuốc dãn cơ: Eperisone, Thiocolchicosiede, Mephenesin.Thuốc giảm đau đơn thuần: Acetaminophen, Tramadol, Codein, viên kết hợp.

         ❖ Tiêm Corticoid tại chổ vào điểm viêm gân hoặc khớp ngoại biên bị tổn thương cho thấy cải thiện nhanh triệu chứng: DMARDs: Salazopyrine , Methotrexate (MTX)

         ❖ Các chất kháng yếu tố hoại tử u nhóm alpha (Anti- TNF): Etanercep, Iníliximab, Adalimumab, Golimumab…

Với sự hội nhập quốc tế, nhiều khoa học y học tiên tiến trên thế giới đã được đưa vào ứng dụng điều trị tại Bệnh viện Quân y 17- Cục Hậu Cần- Quân khu 5 trong những năm gần đây nhằm đạt được sự điều trị tối ưu đem lại chất lượng sống tới người bệnh trong đó chụp MRI phát hiện tổn thương khớp cùng chậu góp phần chẩn đoán sớm bệnh Viêm cột sống dính khớp

.

  Hình 3: Thực hành tiêm thuốc sinh học trên Bệnh nhân

Cho đến nay, Bệnh viện Quân y 17 đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân viêm cột sống dính khớp đáp ứng không đầy đủ với thuốc cổ điển phải chuyển lên tuyến trên điều trị tiếp. Việc ứng dụng thuốc sinh học trong điều trị bệnh viêm cột sống dính khớp đã góp phần vào nâng cao chất lượng điều trị, cải thiện rõ cả trên lâm sàng và xét nghiệm ở ngay sau những chu kỳ truyền đầu tiên. Một số tác dụng phụ ở dạng nhẹ có thể xảy ra khi trị viêm cột sống dính khớp bằng thuốc sinh học là: Đau rát và đỏ da; phát ban, bầm tím ở vị trí tiêm thuốc… Hầu hết các tác dụng không mong muốn này sẽ biến mất trong một thời gian ngắn và hầu như không ảnh hưởng quá nhiều đến sức khỏe./

Nguồn bài viết : Khoa Nội Tim- Thận – Khớp – Bệnh viện Quân y 17

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *